Thụy Khuê - Nguyễn Chí Thiện (1939-2012) và Hoa địa ngục
Thụy Khuê
Năm 1979, một tập thơ từ Hà Nội được chuyển ra nước ngoài. 1980, được in ra. Những ấn bản đầu tiên không đề tên tác giả, chỉ biết đó là một người tù, một kẻ mạo hiểm đă đem tác phẩm của ḿnh "ném vào" toà đại sứ Anh. Tác giả lập tức bị bắt. Bị tù. Đó là Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện.
Từ trái: kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, tác giả Hoa địa ngục - nhà thơ Nguyễn Chí Thiệnnhà văn Thụy Khuê và nhà văn Phạm Phú Minh tại Người Việt's studioHoa địa ngục, khi mới in, mang những tên như Tiếng vọng từ đáy vực1 (1), Quê hương tù ngục2 (2), v.v... Nhiều năm sau mới trở lại với tên Hoa địa ngục do tác giả chọn.
Hoa địa ngục hay những đoá hoa nẩy sinh từ địa ngục -chắc hẳn đă cảm hứng từ Fleurs du mal (Ác hoa), những đoá hoa nảy sinh từ nỗi đau, từ cơi ác của Baudelaire- chiếu vào cuộc đời tù ngục và con người dưới chế độ toàn trị, theo truyền thống Đỗ Phủ.
Nguyễn Chí Thiện nổi tiếng ngay, được nhiều giải thưởng quốc tế của các cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, song thơ ông có lẽ chưa bao giờ được đánh giá đúng mức khi ông c̣n sống.
Bởi nhiều lư do, nhưng có lẽ đáng chú ư nhất là điểm cộng đồng người Việt hải ngoại chia nhiều phe phái: Phái tả thiên cộng không chấp nhận những câu thơ chạm đến "bác" trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phái hữu, phần lớn không chú ư tới thi ca và tranh đấu; phần nhỏ cực hữu, sử dụng ông như một vũ khí, một viên đạn trực tuyến chống cộng. Phái "văn học" xếp thơ ông vào loại chính trị "phi nghệ thuật". Cuối cùng chỉ c̣n lại một số ít người trung thành với thi ca và tự do, đă bảo vệ ông trong suốt hành tŕnh lâm nạn và số đông quần chúng vô danh, vô nhăn, đọc thơ ông trong im lặng.
Những thành kiến cả yêu lẫn ghét, thường dựa vào mấy câu thơ ông kịch kiệt chửi cộng sản làm nền. Chính những câu thơ này đă tạo ra cliché một Nguyễn Chí Thiện chống cộng cực đoan, quá khích, đi ra ngoài thế giới thi ca Nguyễn Chí Thiện.
Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của thi ca, h́nh hài, và ngôn ngữ, trong tác phong, trong cách diễn đạt, là một nhân cách thật, một con người thật. Chỉ v́ nói thật mà mắc ṿng tù tội. Một con người ngây thơ, thành thật, ngơ ngác, vấp ngă trước bao giả trá, tàn ác của chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không ṿng vo. Chất thật ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe, như một điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê hương mà gian dối đă thở thành sự thật.
Năm 1960, ở tuổi 21, v́ trót giảng cho học tṛ đúng sự thật về một đoạn lịch sử thế chiến thứ hai, Nguyễn Chí Thiện phạm tội "phản tuyên truyền", bị kết án 2 năm, nhưng phải tù 3 năm rưỡi, cho đến 1964.
Năm 1966, bị t́nh nghi làm thơ chống chế độ, lại bị bắt, bị tù 11 năm, 1977 được thả.
Năm 1979, "ném" tập thơ Hoa địa ngục vào toà đại sứ Anh, bị bắt tức khắc. Bị tù 12 năm, đến 1991.Trước sau tổng cộng 27 năm.
Ngày 28/10/1991, Nguyễn Chí Thiện được thả. Tháng 1/1995, được sang Hoa Kỳ.Nguyễn Chí Thiện, trong sâu thẳm của lời nói, lời thơ, chính là sự thành thật đă qua đời dưới một thế quyền mà sự giả trá đă trở thành quốc sách.
Sự thành thật nguyên thuỷ toát ra từ giọng nói và thi ca của ông, làm cho người nghe, người đọc ở xă hội "tân tiến" phải ngạc nhiên v́ chất men "quê mùa" c̣n sót lại trong con "người rừng" đă trải gần ba mươi năm tù hăm, đói khát, bệnh tật. Đối với thế giới "văn minh", Nguyễn Chí Thiện là người tiền sử.
Làm thơ khi bắt gặp một cảnh huống, một ư nghĩ, một tâm sự, một chạnh ḷng,... Ông là nhà thơ trần thuật, một người kể chuyện bằng thơ.
Thơ ông gần với lời, thơ ông chính là lời nói vội chưa kịp tu từ thành thi ca, c̣n nguyên chất ṛng khổ đau tù ngục.
Hoa địa ngục là thiên hồi kư về cuộc đời tù tội trong những căn ngục riêng, dưới mái giam chung là cuộc đời trong xă hội cộng sản.
Người ta trách thơ ông thiếu nghệ thuật, cũng phải. Ở địa vị ông, có nhà thơ nào c̣n kịp nghĩ đến nghệ thuật làm thơ? C̣n kịp nghĩ đến việc gọt giũa một chữ đẹp cho thơ? Hay tất cả cũng sẽ như ông: chớp nhoáng, ghi lại những đớn đau gào thét trong thịt da tâm năo.
Bản thảo Hoa địa ngục tập hợp những bài thơ viết tay, dưới đề năm, chắc là những trang giấy rời, cho nên khi in ra, mỗi người sắp xếp theo một lối, hầu như vô trật tự, không theo thời gian, mà cũng không theo chủ đề, các bản in thường có rất nhiều chữ đánh máy sai, nhưng tạm gọi là đầy đủ, chỉ hơn kém nhau một vài bài.
Lối in vội, in tất cả này, chỉ có ích lợi nhất thời; nhưng về lâu về dài, sẽ gây rối loạn cho độc giả: những bài thơ dở làm giảm giá trị những bài thơ hay, nhụt chí người đọc. Bởi thơ cần hay không cần nhiều. Biết bao nhà thơ đă làm giảm giá trị của ḿnh bằng những bài thơ dở hoặc những lời thơ lập đi lập lại nhiều lần. Nguyễn Chí Thiện cũng không ngoại lệ.
Vậy điểm đầu tiên, khi in hoặc in lại thơ Nguyễn Chí Thiện, có lẽ nhà xuất bản nên tuyển, lược những bài dở hoặc lập lại; rồi xếp theo chủ đề, hoặc theo thứ tự thời gian, để làm sáng tỏ vũ trụ thơ Nguyễn Chí Thiện: Thân phận con người trong xă hội toàn trị.
Nguyễn Chí Thiện là nhân chứng không thể loại trừ về một guồng máy kiểm soát con người từ trí óc đến hành động, từ tay chân đến tư tưởng.
Hoa địa ngục vừa là một hành tŕnh thơ, vừa là một hành tŕnh sống.
Hoa địa ngục là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh: chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc.
Văn bản xuất hiện năm 1979, cũng sớm nhất, khi những hồi kư của tù nhân cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn.
Hoa địa ngục là câu chuyện một thanh niên bước vào đời tràn đầy hy vọng: 1954, miền Bắc bắt đầu cuộc sống hoà b́nh, độc lập, sau chín năm chiến tranh. Ba năm sau, 1957, chàng sáng tác bài Mắt em, thơ t́nh, có lẽ là bài thơ đầu tiên được lưu lại, mang nét lăng mạn của cái "thủa ban đầu lưu luyến ấy", lần đầu rung động trước đôi mắt thuyền3 (3). Mắt em thời chưa đi tù, là một hợp âm ca dao, Lưu Trọng Lư và TTKH trong t́nh yêu thứ nhất:
Mắt em mềm mại con đ̣Anh nh́n chẳng thấy hẹn ḥ một câuMắt em trong mát gịng sâuAnh nh́n chẳng thấy nhịp cầu bắc quaMắt em là một vườn hoaVắng anh, thắm nở chói loà sắc hươngVườn hoa ấy, cảnh thiên đườngAnh nh́n chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm (Mắt em, 1957)
Người thanh niên 18 tuổi của một Hà Thành đă tiếp thu cách mạng được ba năm, nhưng chưa "lột xác": vẫn c̣n mộng đôi mắt thuyền Lưu Trong Lư, vẫn c̣n mơ giai nhân đài các "đóng nghiêm" trong khung cửa Thâm Tâm TTKH.
Một năm sau, 1958, thơ đă buồn hơn, đă nhuốm màu hoang sơ Hà Nội sau bốn năm "giải phóng". Thơ luyến nhớ dĩ văng. Hà Nội bây giờ nằm im, lo sợ, chờ đợi bản án Nhân Văn:
Quanh hồ liễu rủGiữa hồ tháp đứng âm uĐền Ngọc Sơn không hương khói lạnh lùngCầu Thê Húc nằm nghe lá rụng...Đâu những bác thầy tầu, thầy cúngNhững bà già đi lễ năm xưa?Cảnh hồ gươm mưa nắng bốn mùaLẩn quất bóng rùa, lặng lẽ... (Quanh hồ liễu rủ, 1958)
Lại một năm nữa trôi qua, 1959, lịch sử miền Bắc xuyên dần vào thơ. Cái sợ của người dân thấm dần vào không gian, cỏ lá. Không khí âm u vượt biên Hà Nội, trải rộng, trải dài, lan tới núi rừng, tới thượng du, tới những bản xa nơi địa đầu hoang dă:
Vài cánh dơi chập chờn quanh cổ miếuRừng ngả dần mầu hiểm bí, âm uGió đ́u hiu thoang thoảng lạnh hơi chiềuSương ẩm ướt bắt đầu rơi phủTrong lặng vắng vút ngân dài tiếng húVài cánh chim lạc lơng vội bay vềLời tối tăm vang dậy bốn bềTiếng ếch nhái côn trùng trong cỏ nướcNgười lữ khách giật ḿnh chân rảo bướcBản mường xa có kịp tới qua đêm? (Vài cánh dơi, 1959)
Nhưng 1959 cũng là năm người thanh niên hai mươi tuổi ngước mắt nh́n xă hội, nh́n con người và cuộc sống. Niềm vui đánh đuổi được thực dân Pháp đă qua lâu rồi, chỉ c̣n lại mầu đỏ búa liềm, liệm dần cuộc đời thực tại trong bốn bức tường độc tài của một người, một đảng.
Nguyễn Chí Thiện bắt đầu vẽ chân dung. Bức tranh đầu, ông vẽ một người mù, một xẩm tân thời sống trong chế độ mới; đồng thời cũng là ư thức của chính ḿnh, lần đầu tiên tỉnh dậy, nh́n thấy sự thực nằm sau những bức b́nh phong giả, bài trí ánh sáng, ấm no tân tạo:
Tôi thường đi qua phốCó anh chàng mù, mắt như hai cái lỗKính chẳng đeo, mồm thời xệch méoNgậm vào tiêu, cổ nổi gân lênDốc hơi tàn thổi đứt đoạn như rênMấy bài hát lăng nhăng ca ngợi ĐảngĐă mang lại ấm no và ánh sáng!Một buổi sớm anh như choáng vángGục xuống đường, tiêu rớt sang bênTôi vội vàng chạy lại đỡ anh lênAnh chỉ khẽ rên: Trời, đói quá! (Tôi thường đi qua, 1959)
Năm 1959 đối với Nguyễn Chí Thiện đánh dấu ngơ quặt của nhận thức. Ngày Thiện đỡ người mù dậy, cũng là ngày anh đỡ chính anh, mang tâm thức anh từ vùng tối ra vùng sáng. Nhưng đó cũng là ngày đại hoạ cho anh: từ nay, anh sẽ thay người mù bước vào bóng tối của lao tù cho đến hết tuổi trẻ.
Năm 1960, lại một bước nữa dấn thân vào định mệnh: Nguyễn Chí Thiện nhận dạy thay một người bạn ốm vài giờ lịch sử cho lớp học bổ túc văn hóa ở Hải Pḥng. Bài giảng về đại chiến thứ hai, thấy sách giáo khoa viết Nhật đầu hàng là do Hồng Quân Liên Xô đánh bại quân Nhật ở Măn Châu, Thiện bèn đính chính: Nhật đầu hàng v́ Mỹ bỏ hai quả bom nguyên tử. Chuyện vu vơ, chẳng dính líu ǵ đến chính trị Việt Nam, thế mà anh bị đưa ra toà, lănh án 2 năm tù v́ tội "phản tuyên truyền". Người con trai 20 tuổi, bị giam v́ trót dậy học tṛ sự thực, chưa tiên đoán được những ǵ sẽ đến trong tương lai:
Nửa đời thân thế long đongNhà thương tù ngục xoay ṿng tuổi xuânMột năm thổ huyết hai lầnMười năm cấm cố tiêu dần thịt daRừng hoang biên giới mưa saHoẵng kêu nấc gịong xa xa trên ngànChăn đơn khôn ấm nỗi hànCo lên đất tấm thân tàn bỏ đi... (Đêm nằm nghe, 1974)
1961, nẩy sinh một Nguyễn Chí Thiện khác, một nhà thơ lột xác, đă thôi lăng mạn, giă từ yêu đương, miễn tiếc nhớ, để bước vào thực chất lao tù, bước vào định mệnh:
Có những chiều mưa buồn lạnh cóngGiữa bùn trơn tê tím xương daChống cuốc nh́n rừng núi bao laTrong bụi nước mờ mờ lẩn bóng...Có những chiều mặt trời như lửa bỏngGiọt mồ hôi mờ xót con ngươiĐặt gánh phân nh́n bốn phía đất trờiRừng núi đứng im ĺm trong nắng loáCó những chiều thịt gân rời ră... (Có những chiều, 1961)
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ nhân chứngTừ đây, Nguyễn Chí Thiện trở thành nhà thơ nhân chứng, trở thành Đỗ Phủ của địa ngục trần gian, của thiên đường cộng sản. Tia mắt ánh xanh lạ lùng ở một người châu Á ấy đă quắc lên.
Ở tuổi 23, ông viết bài thơ đầu tiên mô tả thực chất đời tù. Ở người thanh niên lăng mạn mơ mộng hiền lành mấy năm về trước, nay đă có sự đổi thay toàn diện từ lực tâm đến lực bút, những chữ dữ dội, khốc liệt, vung lên:
Chúng tôi sống giữa ḷng thung lũngBốn bên là rừng núi bọc vây quanhỞ rúc chui trong mấy dẫy nhà tranhĐầy rệp muỗi, đầy mồ hôi, bóng tốiBệnh tật cho nhau, đời ôi hết lốiTuyệt vọng ngấm dần, hồn xác tả tơiBảo đây là kiếp sống của con ngườiCủa trâu, chó? So làm sao, quá khó!Làm kiệt lực, nếu không giây trói đóỐm ngồi rên, báng súng thúc vào lưngBướng lại ư? Hăy cứ coi chừngXà lim tối, chân cùm dập nát!Lũ chúng tôi triền miên đói khátĐánh liều xơi tất cả củ cây rừngBữa cơm xong mà cứ tưởng chừngChưa có một thứ ǵ trong ruột cả!Đêm nằm mơ, mơ toàn mơ thịt cáNgày lắm người vơ cả vỏ khoai langCó ai ngờ thăm thẳm chốn rừng hoangĐảng cất giấu dân lành hàng chục vạnVà sát hại bằng muôn ngàn thủ đoạnVừa bạo tàn vừa khốn nạn, gian ngoaBiết bao người chết thảm chết oanChết kiết lỵ, chết thương hàn, sốt rétChết v́ nuốt cả những loài bọ rếtV́ thuốc men, tṛ bịp khôi hàiChế độ tù bóc lột một không haiBiết bao cảnh, bao t́nh quằn quạiCó những kẻ thân h́nh thảm hạiPhổi ho lao thổ huyết vẫn đi làmLời kêu xin phân giải chỉ thêm nhàmPḥng y tế dữ hơn pḥng mật thám!Những con bệnh bủng vàng hay nhợt xámBước khật khừ như bóng quỷ hồn ma...Có những buổi mưa rơi tầm tăVác áo quần ra đứng cả ngoài sânLũ công an lục soát toàn thânThu đốt cả vật tối cần- miếng dẻ!Cụ Mác ơi, cụ là đồ chó đẻThiên đường cụ hứa như thế kia a?... (Chúng tôi sống, 1962)
Chúng tôi sống, 1962, là một bản cáo trạng, một bản hùng văn, một bức tranh cô đọng và chi tiết về cuộc sống hàng ngày của những tù nhân chính trị trên đất Bắc, chưa bao giờ được viết, chưa bao giờ được công bố.
Chúng tôi sống là bức tranh hiện thực rỏ máu. Sự thật này, năm 1962 không ai tin được, bởi mọi người c̣n chưa hết say chiến thắng Điện Biên, c̣n đang hướng về một thiên đường tuyệt đối sau khi dẹp xong bọn "phản động" Nhân Văn Giai Phẩm.
Phải 40 năm sau, Bùi Ngọc Tấn mới viết những sự thật này thành tiểu thuyết.
Nguyễn Chí Thiện đi sớm hơn thế hệ ông bốn mươi năm, v́ vậy mà ông đă không được đánh giá đúng mức, bởi trong số những người ca tụng Bùi Ngọc Tấn sau này, rất nhiều đă từng đào thải Nguyễn Chí Thiện.
Chúng tôi sống nói lên sức sống mănh liệt của người thanh niên tên Chí Thiện, hiểu tại sao có sự trở ḿnh của một ng̣i bút bẩm sinh vốn nhu ḿ, nay đă lột xác trở thành đanh thép; giải thích tại sao một thanh niên ốm o ho lao, có thể sống c̣n và tồn tại sau 27 năm tù.
Trong số những chàng trai bị tù v́ tư tưởng, Chí Thiện hiện rơ nét, bởi anh là một nhà thơ, dám nghĩ, dám ghi lại ngoại cảnh và tâm cảnh của ḿnh. Anh bắt đầu đầu đặt câu hỏi, về trời, về đất, về nước, về thân phận. Nguyễn Chí Thiện suy nghĩ lao lung:
Trời u ám, cây hay là sương xám?Mây đục mờ, hay vải liệm mầu tang?Gió đ́u hiu lạnh buốt can tràngHay hơi thở nơi dương tàn âm thịnh?Ḷng thung vắng mịt mù hoang lạnhHay mồ ma huyệt địa rấp xương khô?Từng đoàn đi thiểu năo toán tội đồHay quỷ đói nơi trần gian địa ngục?Những chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhụcMắt lạnh lùng, ngời sáng lửa âm uHọ ngước trông non nước mịt mùVà cúi xuống, nặng nề suy nghĩ... (Trời u ám, 1962)
Kể từ đêm trừ tịch 1961, Chí Thiện nhận thức được vai tṛ nhân chứng của ḿnh. Kể từ nay, anh quyết tâm ghi lại trong đầu từng cảnh sắc, từng h́nh ảnh, từng chi tiết nhỏ nhoi:
Đêm rừng, rả rích mưa, pḥng dộtÔm gối ngồi run lạnh nh́n nhauChấm lửa mờ xanh một ngọn đèn dầuThùng nước giải, thùng phân, sàn rệp đốtĐêm trừ tịch tù năm sáu mốt. (Đêm rừng rả rích, 1962)
Mỗi trạng huống, mỗi âm thanh, có thể trở thành một bài thơ khủng khiếp. Chưa nơi nào, chưa thơ nào mà kiếp người kinh hoàng đến thế:
Trời mưa tầm tă đêm quaSáng nay lạc rỡ c̣n pha trộn bùnSá ǵ bệnh sán, bệnh giun!Dịp may hiếm có, tùn tùn nuốt nhaiTôi nghe rào rạo bên taiMột nhân lạc phải trộn hai nhân bùn (Trời mưa tầm tă, 1962)
Cái đói ở đây không c̣n nguyên chất sinh học nữa nữa, không c̣n trọn khối nữa, mà nó đă hoá thân, hóa chất, nhập vào mỗi âm thanh: tùn tùn nuốt nhai, rào rạo bên tai, một nhân lạc trộn hai nhân bùn. Nó đánh động lương thức người đọc như một thứ bom nổ chậm mà chắc.
Vẫn chuyện rỡ lạc, năm sau, cái đói mở ra một trận tuyến khác: nó dẫn đến sự trừng trị, nó là cái cớ để cái ác có cơ hội ra tay, như nhân với quả:
Toán tôi rỡ lạc ngoài đồngCó ông quản giáo ngồi trông đàng hoàngThừa cơ quản giáo trông ngangMột anh tranh thủ vội vàng nuốt nhaiVài nhân lạc cả vỏ ngoàiQuả tang! Báng súng nện hoài không thôi!Mồm anh toé máu, vều môi. (Toán tôi rỡ lạc, 1963)
Chưa có một thế giới nào dă man đến thế: vừa chết đói vừa bị đánh.
Nhưng sự kinh hoàng đến từ chỗ khác: Sự thản nhiên của người kể, nhẹ nhàng như thuật một chuyện vui hàng ngày. Những chữ thừa cơ, tranh thủ hàm ư khôi hài, càng làm tăng tốc ác, làm dầy cái bạo tàn, làm tê liệt hệ thần kinh người đọc.
Thơ Nguyễn Chí Thiện không gọt giũa mỗi chữ mỗi lời, cũng không cao siêu tư tưởng, mà chỉ là những lời lẽ b́nh thường, thậm chí tầm thường nữa, nhưng chúng làm ta giật ḿnh bởi chất dă man, tàn bạo ẩn trong những con chữ nhu ḿ hiền hậu, lừa ta vào ổ phục kích bất ngờ.
Cũng năm 1963 này, Nguyễn Chí Thiện sáng tạo những câu thơ lăng mạn pha máu và nước mắt. Sự tuyệt vọng lên ngôi, người thanh niên 24 tuổi, sau ba năm tù tội, đă nghiền tan cái lăng mạng của thời ḿnh trong những ḍng thơ tuyệt vọng, những câu thơ tím bầm ḿnh mẩy, những vần thơ run sợ thất thần trên đường lên máy chém:
Khi ta tới mặt trời đă nguộiGió mùa thu trở gió may càoNhững mầm non khô cứng tế bàoMau thay sắc mang mầu xanh rớtVà mặt đất hoá thành mặt thớtVà con người con cá thiu ươnKhắp nơi nơi nhung nhúc loài lươnLoài giun đất không quằn khi dẫmT́nh mộng đă vùi chôn một nấmHận thù trơ trọi sống mồ côiNhững vần thơ lăng mạn câm rồiC̣n rỏ xuống một ḍng đỏ sẫm (Khi ta tới, 1963)
Những vần thơ lăng mạn câm rồi -chính là thơ bị trảm tấu, thơ bị tử h́nh- là đỉnh cao của tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng trở thành độc dược, ngấm dần vào cơ thể thanh niên, hủy hoại hệ thần kinh, rút dần xương tuỷ:
Mầu thời gian đă chuyển về sắc xámVị thời gian đă ngả tới mùi thiuNửa trang đời dập, xoá, tẩy c̣n lưuVà c̣n đó nửa trang dài lạnh trắng...Tim trúng độc hóa ra bầu mật đắngHệ thần kinh một mớ chỉ xù lôngNửa trang đời không một chữ nào trôngThành nét chữ, nửa trang đời lạnh trắng......Dông gió hết bơ phờ trong quạnh vắngCảnh hoang tàn cây đổ mái nhà xiêuNửa trang đời thâm tím với bầm biêuḶng dột nát, nửa trang đành bỏ trắng? (Mầu thời gian, 1963)
Đă xa rồi cái buổi "mầu thời gian xanh xanh" của Đoàn Phú Tứ. Mầu thời gian, ở Nguyễn Chí Thiện, nó sắc xám, nó đă ngả mùi thiu, nó là trái tim trúng đạn, nó là hệ thần kinh rối bét như mớ chỉ xù, nó là nửa trang đời bỏ trắng, nó là chưa sống mà đă chết... nó là mầu tuyệt vọng của thời gian. Bên cạnh sự tuyệt vọng của thời gian, là sự hấp hối của một người em tập kết:
Những manh áo vảiTả tơiVật văVào thịt da...Em có lạnh lắm không?Mưa gió mênh môngThung lũng sũng nước bùnBệnh xá mối đùn, ẩm mốcNhững khuôn mặt xanh vàng gầy rộcNh́n nhau, đờ đẫn không lờiNhát nhát em hoTừng miếng phổi tung rờiBọt sùi, đỏ thắm!Em chắc oán đời em nhiều lắmOán con tầu tập kết Ba LanTrên sóng năm nàoĐảo chaoĐưa em rời miền Nam chói nắng......Sáng nay em không trống không kènGiă từ cuộc sốngXác em rấp trên đồi cao gió lộng (Anh gặp em, 1965)
Toàn bộ thời gian, không gian, người, vật, đều sống trong mùi tử khí, đều là những chân dung xác chết, nối tiếp nhau trong vườn hoa địa ngục. Người đọc lạc vào cửa tử trong trận đồ bát quái không t́m được lối ra. Bên cạnh xác người em tập kết là xác chết một thân trâu:
Trông trâu mà khiếp cho trâuLở loang, tanh loét, sắc mầu nhở nhamLệnh ban giám thị nhà giamMừng ngày quốc khánh cho làm thịt ănTù nhân tính toán băn khoănBốn mươi cân thịt, người ăn một ngh́n! (Trông trâu mà, 1967)
Trong bữa tiệc mừng quốc khánh, mỗi người tù được hưởng 40g thịt trâu chết bệnh. Chưa có cao lương nào đạt vị khôi hài chua chát cay độc đến vậy. Nhưng chưa hết, bên cạnh xác trâu lở loang, tanh loét; bên cạnh một ngh́n xác tù hom hem; bên cạnh bữa tiệc quốc khánh quái đản, lại là một chân dung người:
Bác nằm liền sát cầu tiêuMùi phân nước giải sớm chiều nồng hôiBác ơi, bác sắp chết rồiBác không c̣n sức để ngồi được lênBác nằm thoi thóp khẽ rênBát cơm ngô, bát rau dền đặt bênBác thèm một miếng đường phènNhà giam Cộng sản bác quên bác tùTrưa nay cái chết lù lùTới khiêng bác - Khối hận thù ngàn thu! (Ốm đau không thuốc, 1968)
Cuối cùng, sống chết giao lưu trong một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Người hấp hối và thần chết tṛ chuyện với nhau trong không gian âm dương giao kết, buốt lạnh:
Nh́n thần chết hiện lên dần từng bướcThân tù cao không có lực xô lùiAnh chết oan, chết thảm, chết dập vùiHồn khổ năo không thể nào siêu thoátĐêm đêm hiện về đây lạnh toátBộ đồ đen, bụng phù trướng, bước điAnh ngước nh́n tôi, ra hiệu, chẳng nói ǵMặt bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc...Thế đủ rồi, tôi hiểu, hăy nên luiThể xác anh chuột khoét đă chôn vùiHồn anh hăy về vui nơi cực lạcLưu luyến chi đời tù lao đói rạcSống đọa đầy thoi thóp, sống ngựa trâuChết như anh, hết khổ có chi sầu... (Nh́n thần chết, 1968)
Trong nhiều năm, Nguyễn Chí Thiện ngồi vẽ chân dung như thế, bức nọ để cạnh bức kia, thành cuộc triển lăm một quần hội nửa người, nửa thú, đang sống mà đă chết. Một thế giới người, vật, âm, dương, không phân chia giai cấp, không phân liệt đấu tranh. Một vùng ngoại biên, trên sông lú, người và vật cùng bị giam trong một không gian kín, chết sống giao thoa. Cái đói là bát cháo lú khiến người tù quên ḿnh khi trước đă từng là một con người:
Suất cơm tôi một hôm đánh đổTôi c̣n đương đau khổ nh́n theoTh́ nhanh như một đàn heoBốn, năm đầu bạc dẫm trèo lên nhauBốc ăn một lúc sạch làuMiếng cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau! (Suất cơm tôi, 1966)
Trên bờ sông nghĩa địa ấy, người thanh niên Chí Thiện tồn tại như một vong hồn:
Tôi đương sống, nhưng từ lâu đă chếtChết trong tim, trong óc, chết tâm hồnCố đào lên bao thứ sớm vùi chônSong chúng đă xông mùi, tan rữa hết (Đoản thơ, 2)
Kẻ nhận định thơ ḿnh đúng nhất cũng lại là tác giả. Mười năm sau khi vào tù lần thứ nhất, Nguyễn Chí Thiện "nhận định" thơ ḿnh:
Thơ của tôi không phải là thơMà là tiếng cuộc đời nức nởTiếng của nhà giam ng̣m đen khép mởTiếng kḥ khè hai lá phổi hang sơTiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơTiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớTiếng răng lạnh đập vào nhau khổ sởTiếng dạ dầy đói lả bóp bâng quơTiếng tim buồn thoi thóp đập bơ vơTiếng bất lực trước muôn ngàn xụp lởToàn tiếng của cuộc đời sống dởVà chết thời cũng dở, phải đâu thơ! (Thơ của tôi, 1970)
Năm năm sau, 1975, ông làm bài thơ thứ nh́ định nghiă thơ ḿnh, khốc liệt hơn:Thơ của tôi không có ǵ là đẹpNhư cướp vồ, cùm kẹp, máu ho laoThơ của tôi không có ǵ caoNhư chết chóc, mồ hôi, báng súngThơ của tôi là những ǵ kinh khủngNhư Đảng, Đoàn, như lănh tụ, như trung ươngThơ của tôi kém phần tưởng tượngNó thực như tù, như đói, như đau thươngThơ của tôi chỉ để đám dân thườngNh́n thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ (Thơ của tôi, 1975)
Không c̣n ǵ để bàn trước những lời thơ như thế. Quá khích ư? Đúng là quá khích. Nhưng có ǵ quá khích hơn bị tù v́ tội nói thực? Có ǵ quá khích hơn sự đọa đầy đến chết v́ tư tưởng? Không có ǵ để khen chê trước những lời thơ như thế. Không có ǵ liên quan tới nghệ thuật trước những lời thơ như thế. Không có ǵ hàm súc, không có ǵ ngụ ẩn trong những lời thơ như thế. Phê b́nh đành chịu. Phê b́nh đành gác bút. Có lần J.P. Sartre nói: Trước một em bé chết đói, cuốn Buồn nôn của tôi không có nghiă lư ǵ. Chúng ta bảo: trước những ḍng thơ tù như thế, mọi khen chê, mọi nghệ thuật, đều trở nên vô nghiă. Phê b́nh đành á khẩu.
Trước mắt tôi, mặt trời hấp hốiSau lưng tôi, bóng tối mịt mùngBên phải tôi, tù ngục chập chùngC̣n bên trái, súng nhằm tim chắn lối! (Đoản thơ, 152)
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ trào phúngNhưng thơ Nguyễn Chí Thiện không chỉ có ngục tù, không chỉ có đớn đau và xác chết, ông c̣n có những bài thơ trào phúng vẽ chân dung lănh tụ rất có duyên:- Về bác Mao:Bác Mao cân nặng tạ haiThịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằmNgười dân Trung Quốc th́ thầm:"Nó là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều!" (Đoản thơ, 126)
- Về bác Hồ:Bác Hồ rồi lại bác Tôn!Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồngNước da hai bác mầu hồngNước da các cháu nhi đồng mầu xanh... (Bác Hồ rồi lại)
- Lại về bác Hồ:Bác Hồ tới thăm thiếu nhiBác cười bác hỏi chi li ngọn ngànhViệc ăn ở, việc học hànhLao động bác dặn chấp hành tốt, nhanhKẹo bánh bác hứa để dànhChủ nghiă xă hội hoàn thành sẽ cho!Thiếu nhi khăn đỏ cổ c̣Vỗ tay suông chúc bác Hồ sống lâu... (Bác Hồ tới thăm, 1967)
- Về học thuyết Mác:Học thuyết Mác, này đây sọt rácXét lại làm ǵ, tốt nhất vất nó điSử sách sau này đỡ mất công ghiThêm quá nhiều trang xám x́ tội ác (Đoản thơ, 169)
- Về thiên đường Mác:Thiên đường cụ Mác dân mơTỉnh ra tài sản bị vơ nhẵn rồiChỉ c̣n lại chút mồ hôiĐổ ra v́ sợ, v́ nuôi Đảng rồ! (Đoản thơ, 180)
Vẽ chân dung các đại lănh tụ như thế không phải dễ. Đó là lối thơ dân gian, lối thơ bút tre của những cụ đồ hóm hỉnh. Tính chất hóm này những ai đă từng nghe Nguyễn Chí Thiện nói chuyện thường bắt gặp: trong cái bi thảm tột đỉnh, tâm hồn ông bao giờ cũng hướng về một lối thoát, dù rất bé, về phiá mặt trời: ông là người của niềm vui, của lạc quan. Ông thích cười nhưng cuộc đời đă làm môi ông chụm lại che kín hàm răng. Nhưng mắt ông thường lộ một ánh lửa trêu ngươi, nhạo báng, thách thức, chơi khăm, những thế quyền, những bạo lực.
Bị tuyệt vọng đè nát cuộc đời, nhưng ông không chết v́ tuyệt vọng.
Bên cạnh tiếng cười, thơ ông là một cơi mênh mông lệ, cơi nước mắt trong vắt như thủy tinh:Trong muôn ḍng trái đất tuôn điḌng trong nhất là ḍng nước mắt (Lệ, 1971)
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ thời thếTrong tù, không gian chật lại, bốn mùa co lại, thời gian không gian cùng chui chung một kiếp với tù nhân. Và mùa xuân, mùa hy vọng cũng chịu cực h́nh như người tù phạm:
Bốn bức rào nứaCứa vào mùa xuânMột cách bất nhânMùa xuân máu ứa! (Đoản thơ, 48)
Không gian và thời tiết trong tù cũng là không gian và thời tiết của đất nước. Nhưng người tù không được biết ǵ về thời thế, về chiến tranh, về t́nh cảnh dân tộc. Người tù cũng giống như người nhà nông xưa, phải xem trời để biết nắng, xem mây đoán mưa. Người tù cảm nhận thời thế gián tiếp qua thiên nhiên, vũ trụ. Khi đất nước bị suy vong, khi con người bị trấn áp, cơn thịnh nộ của đất trời giáng xuống núi rừng như một lời cảnh giác:
Đêm băo giật, lửa loè muôn tiếng sétNổ đùng đùng như đánh phá sơn lâmNước từ trời cao đổ xuống ầm ầmCả rừng núi lồng lên gầm quát thét (Đoản thơ, 95)
Trước cơn thịnh nộ của đất trời, người tù Nguyễn Chí Thiện đă hiểu tất cả. Ông phẫn nộ và hờn oán chính ḿnh, người ḿnh, về chuyện nước non tan tác:Giận thân rồi lại giận đờiGiận thời chuyên chính, giận người hèn nguGiận trời, giận đất âm uGiận sông, giận núi quân thù dọc ngang (Đoản thơ, 140)
Nguyễn Chí Thiện sống trong tù trong suốt thời gian chiến tranh, nhưng chắc ông đă hy vọng miền Nam sẽ thắng. Những câu thơ sau đây đánh dấu sự tuyệt vọng của nhà thơ khi miền Nam thua trận, cả nước quy về một mối cộng sản:
Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tanTa sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn (V́ ấu trĩ, 1975)
Và trong con người ốm o, tù tội ấy, luôn luôn có sẵn ư định lật đổ định mệnh của ḿnh và của dân tộc. Ư chí sắt đá ấy toát thành những lời thơ vũ băo, đặc dị, khác thường:
Trong bóng đêm đè nghẹtPhục sẵn một mặt trờiTrong đau khổ không lờiPhục sẵn toàn sấm sétTrong lớp người đói rétPhục sẵn những đoàn quânKhi vận nước xoay vầnTất cả thành nguyên tử (Trong bóng đêm, 1976)
Sau này, khi chế độ toàn trị chỉ c̣n là quá khứ, những Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Bùi Ngọc Tấn... sẽ trở thành chứng nhân của lịch sử; một lịch sử sống động, trực tiếp, thành thực về vùng đồng lầy, viết bằng những từ trần trụi, không khoan nhượng, mô tả chính sách triệt hạ nhân quyền ở Việt Nam, trong hậu bán thế kỷ XX:
Đạo lư tối cao ở xứ đồng lầyLà lừa thầy, phản bạnVà tuyệt đối trung thành vô hạnVới Đảng, với Đoàn, với lănh tụ thiêng liêngHạt thóc, hạt ngô phút hoá xích xiềngHoạ, phúc toàn quyền của đảng (Đồng lầy, 1972)
Không ai kêu nổi một lờiMồm dân Đảng khoá đă mười mấy năm (Gửi Bertrand Russell, 1968)
Lời thơ tuy như nói, nhưng có tác dụng bằng trăm lời nói thường, bởi nó có cấu trúc nội tâm là sự thật.
Bài Đồng lầy là một bản trường ca về thời đại Nguyễn Chí Thiện đă sống, một cơi đồng lầy với những kiếp người như những con giun, với bọn ếch nhái lên làm chủ và lũ sậy lau co đầu cúi rạp. Cơi mộng chỉ đến trong giây lát, rồi nhà thơ lại phải quay về với thực tại, của đêm đen, của dân tộc đẫm trong ám khí đồng lầy:
Trời cao biển rộng có cũng như không!Một tiếng quạ đêm ảo năo rỏ xuống đồngTôi tỉnh hẳn, trở về cơn ác mộngMuỗi nhơn nhơn từng đàn vang độngNhững con cưng của ngừng đọng tối tămChúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều nămNên chúng tưởng màn đen là ánh sáng!Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cángChửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đenLũ sậy lau c̣m cơi đứng chenHơi có gió là cúi đầu rạp hếtBát ngát xung quanh một mầu khô chết (Đồng lầy)
Cả đoạn thơ trên bị một tiếng quạ đêm rỏ xuống đồng làm tan nát. Đúng ra, chỉ một chữ rỏ thần t́nh, chua xót, một chữ rỏ xác định phong cách thơ.
Đồng lầy làm năm 1972, tóm tắt cuộc đời Nguyễn Chí Thiện, từ tuổi hai mươi, đầy tin tưởng vào tương lai, vào ánh sáng cách mạng mùa thu:"Mơ ướcĐợi chờVĩ đại...Nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lạiTuổi hai mươi mắt nh́n đời trẻ dạiNgỡ cờ sao rực rỡ,Tô thắm mầu xứ sở yêu thươngCó ngờ đâu giáo giở đă lên đườngHung bạo phá bờ kim cổTiếng mối giường rung đổ chuyển non sôngMặt trời sự sốngThổ ra từng vũng máu hồng (Đồng lầy)
Lời thơ cổ điển theo lối kể các truyện nôm xưa: Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, lại mang sắc hiện đại của Một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt. Nhưng cơn mộng cách mạng của Nguyễn Chí Thiện -chậm hơn các bậc đàn anh, v́ ông ra đời sau, và cũng chấm dứt sớm hơn nhiều người khác, bởi ông đă nh́n thấy trước sự thật: Có ngờ đâu giáo giở đă lên đường- kéo theo một chuỗi dài rùng rợn:Hung bạo phá bờ kim cổTiếng mối giường rung đổ chuyển non sôngMặt trời sự sốngThổ ra từng vũng máu hồng
Lời thơ mạnh mẽ. Chí khí vẫy vùng.
Thơ mang bạo lực như cách mạng, nhưng một bạo lực phản cách mạng.
Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện là hai nhà thơ miền Bắc chối bỏ rất sớm Cách mạng mùa thu. Ông đă nhận ra trách nhiệm lớn nhất của cuộc cách mạng này là du nhập chính sách đấu tranh giai cấp (của Mác, qua lăng kính Mao, vào đất Việt) là một ḍng lũ, bùn, cuốn trôi tổ quốc:Một mùa thu nước lũTrở thành bùn nước mênh môngLớp lớp sóng hồng man dạiCh́m trôi quá khứ tương laiMáu, lệ, mồ hôi, rớt răiĐi về ai nhận ra ai!Khiếp sợ, sững sờ, tê dại!Lịch sử quay tít ṿng ngược lạiThời hùm beo rắn rết công khaiNgàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai (Đồng lầy)
Chỉ có Phùng Cung và Nguyễn Chí Thiện dám mô tả cách mạng mùa thu như thế. Nguyễn Chí Thiện bị bắt năm 1960. Phùng Cung, 1961. Nguyễn kể năm 1970 gặp Phùng trong trại tù Phong Quang, Yên Bái. T́nh cờ chăng? Phùng và Nguyễn cùng tố cáo chiến tranh Nam Bắc?
Súng ống từng đoàn run run, nhớn nhácĐảng lùa đi, tan tác, thương vongMái ngói, mái gianh, lệ thảm ṛng ṛngNhỏ xuống bốc hơi trong ḷng vạc bỏngĐảng dữ thét gào, hóc xương ngang họngGiọng thều thào, gượng gạo hung hăngLưới thép nền chuyên chính tung quăngKhốc liệt, bậy xằng, ức oan, cay đắngDân đen tay trắng cam đànhTừ núi rừng hoang vu tới phố xá thị thànhTừ hải đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngátMầu áo vàng cảnh sátTràn lan, nhợt nhạt cả mầu xanh!Cuộc sống đồng lầy rộp rát, nhoét tanhBom đạn chiến tranh c̣n giật giành chút xương da thảm hạiCái cảnh mười đi, hai ba trở lại. (Đồng lầy, 1972)
Đồng lầy là một bài thơ thời thế, bài thơ dấn thân, bài thơ tranh đấu, luận tội cộng sản và kết án chiến tranh. Đồng lầy cũng là một bài diễn ca trong phong cách Hà Thành chính khí ca, Đại Nam quốc sử diễn ca... Sau này, khi mọi chuyện lắng xuống, người ta mới có thể đánh giá bản trường ca này một cách công b́nh hơn. Nhưng chắc chắn nó sẽ là một bài thơ cần phải đọc để t́m hiểu thời đại này.
Bài Con tầu rêu, là một thành công khác, một giá trị nghệ thuật và tư tưởng.
Dùng Con tầu rêu Nguyễn Chí Thiện muốn mượn h́nh ảnh con tầu say (bateau ivre) của Rimbaud, để chỉ những con tầu tự do, hay sự tự do của chính ḿnh. Thơ buồn bă như một lời tâm sự:Con tầu say như ních chật không gianGiữa mùa điên không biết lực điêu tànXô vỡ vụn nơi ngời băng tuyết loáTrong trắng xoá những ngày mưa tầm tăCon tầu đau vật vă trước bờ xanhPhiá mờ xa thôn xóm đứng yên lànhThân tầu đă tan tành trên mũi đá.Cay đắng quá những bến nghèo tàn tạĐón trông tầu lui tới, đứng buồn thiuKhi tầu tôi men đến cũng dập d́uGây sóng gió đắm d́m cho nhục nhăÔi tiếp tới nước triều dâng vật văCon tầu run chưa tiến đă chờn luiĐành một mai nơi đáy nước rêu vùiLàm chỗ ở cho tôm, ṣ, ốc, cáTôi đă biết những đêm dài ḍng dăCon tầu câm trôi giữa đám trăng saoBiết dừng đâu, không bóng hải cảng nàoRa tín hiệu đón con tầu buồn băTôi đă biết những b́nh minh đói lảBiến sang mầu loang tím của chiều hoangCon tầu đi, sức kiệt, lệ ḍng hàngThương xót những mảnh tầu trôi vạn ngả... (Con tầu rêu, 1965)
Niềm tuyệt vọng của Nguyễn Chí Thiện về tự do đă dấy lên rất sớm, từ thời thanh niên, tù tội, Từ năm 1965.
Con tầu tự do trong tim người tù trẻ phóng đi t́m một bến bờ, t́m sự đồng thanh tương ứng. Nhưng con tầu của chàng đơn độc một ḿnh. Nó đă mắc nạn. Không ai cứu giúp. Không ai cho cập bến, đến cả các bến nghèo, họ cũng đuổi tầu đi. Họ cũng d́m cho tầu ch́m, dường như trên mảnh đất này, tự do là yếu tố đă bị yểm, bị mọi người bỏ qua, bị sa thải như một vật phù phiếm, người ta không cần dùng đến.
Tất cả những đắng cay của con tầu rêu, ch́m dưới đáy biển, vận vào thơ, làm nên linh hồn tập Hoa địa ngục.
Không ai hiểu hơn tác giả, không ai có thể định nghiă đúng thơ ông bằng vài đoản thơ sau đây mà chúng tôi chép lại như lời kết của chính tác giả về đời ḿnh, về tự do và về thân phận dân tộc:Hoa địa ngục tưới bằng xương máu thịtTrộn mồ hôi chó ngựa, lệ ly tanHoa trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hànHương ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.
Toàn bộ thơ tôi nặng nề cay cựcKhông một sắc mầu mang khí lực xanh tươiVần điệu nghe như quỷ khóc ma cườiDo sáng tạo tận cùng sâu đáy vực (Đoản thơ, 112, 113)
Nguyễn Chí Thiện đă chết. Một cái chết đột ngột, không ai ngờ, trừ "tác giả". Một cái chết nhanh, trần trụi, phanh phui sự thực như thơ ông: Cái chết đứng của Từ Hải trước trận tiền, bằng những cơn ho xé phổi, bằng lục phủ ngũ tạng tan tành như trái phá, trong một ngoại h́nh gần như vô bệnh.
Cái chết làm câm đi những lời ngụy biện trong các chiến dịch "Nguyễn Chí Thiện thật giả, giả thật" nối tiếp nhau bôi nhọ ông trong ṿng nhiều năm, dường muốn chôn ông lần nữa, bắn ông bằng thứ ám khí tàn ác không kém ǵ 27 năm tù cộng sản, của những kẻ sống dưới xă hội tự do, những kẻ tạm gọi là "đồng hội, đồng thuyền".Khi Hồ Thích bị các đồng chí trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa đánh, Phan Khôi viết: "Thà chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng chí, của người quân tử".Đấy là Phan Khôi nói về cái chó má của người quân tử, c̣n trường hợp Nguyễn Chí Thiện, lại là cái chó má của bọn tiểu nhân, phỏng có đáng nhắc đến chăng?Sự lựa chọn, luôn luôn sự lựa chọn làm nên con người. Trong muôn vàn lời tiếng ném ra, con người có khả năng lựa chọn tiếng nào hữu t́nh, hữu lư; tiếng nào phản, ngụy, trắc, gian.Trong muôn ngàn tiếng muốn t́m raTiếng nào thiết thaTiếng nào trung thựcHăy lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực (Đoản thơ, 114)
Chúc thư Nguyễn Chí Thiện để lại là chúc thư ngôn ngữ và tư tưởng: Mặc kệ ngục tù, mặc kệ xác thân rữa nát, tư tưởng và ngôn ngữ vẫn sống, sống lâu, sống dài, sống măi:Song ngôn ngữ ngày đêm vẫn sốngÂm thầm đưa tư tưởng sang sôngQua muôn trùng hệ thống xiềng gôngĐang ra sức dựng thay cầu cốngThoát khỏi đầu là tư tưởng sống (Từ tư tưởng, 1971)
Thụy KhuêParis tháng 6-8/2013
Chú thích:1. Do Ủy Ban Tranh Đấu Cho Tù Nhân Chính Trị Tại Việt Nam, nhóm Nguyễn Hữu Hiệu, Viên Linh in tại Washington DC, 1980.2. Do Phong trào thanh niên hành động, in ronéo tại Pháp, không đề năm.